Chúng tôi ra biển khi trời vừa đâm mây ngang. Chuyến đi này, chiếc ghe te ruốc của Huy - một ngư dân trẻ ở ngay đầu giồng Đồn sẽ có chuyến đi hơi đặc biệt.
< Tác giả và quay phim Tìa Lâm Huy trên cồn 15 vào sáng sớm.
Đầu tiên, Huy sẽ đưa chúng tôi đi tham quan những hàng đáy ruốc trong nắng sớm và ghé cồn 15, một cù lao giờ đã nổi cao và ngày càng mở rộng ở mé ngoài cửa biển Mỹ Thanh... “Tháng 3 bà già đi biển”. Biển êm cũng bắt đầu vô mùa Ruốc đến tận tháng 5 âm lịch. Có lẽ vì ở đoạn giữa của dòng Hải lưu Biển Đông, cùng với dòng chảy của sông Hậu đổ ra biển qua cửa Trần Đề, rồi dòng chảy của dòng Mỹ Thanh, tốc độ lấn biển của vùng cửa biển này thật nhanh...
Phải chăng đây cũng là lý do để hình thành nên dáng hình của những giồng cát ở Vĩnh Châu khi những giồng cát này luôn có hình dáng như một vòng cung lớn đồng phương với đường bờ biển.
Trước khi ghé vô đây Huy cũng cho chúng tôi biết một thông tin khá thú vị : “Cồn 15 giờ đã nối liền với cồn Trâu thành một giồng cát ngầm dài mút mắt. Ghe tàu đi không khéo mắc cạn như chơi. Còn luồng biển sâu nằm ở phía mặt trời mọc”.
< Một ghe te ruốc trước hàng đáy ruốc trên cửa Mỹ Thanh.
Có đặt chân lên cồn 15 mới thấy đuôi Cù Lao Dung thật gần, bãi biển Hồ Lạng, Hồ Bể cũng thật gần. Chợt nhớ câu “Thương Hải Tang Điền”. Tôi chợt nghĩ - chắc cũng chẳng còn mấy mà đuôi Cù Lao Dung sẽ vươn đến nơi đây!? Hoặc giả không chừng... chỉ cỡ chục năm nữa... người ta có thể đi bộ từ bãi Hồ bể ra đến chỗ này để ngắm biển?
Te ruốc và bữa cơm trưa trên biển
Nắng lên, chúng tôi bắt đầu cho chuyến te ruốc trên biển Hồ Bể. Quan sát 3 ngư dân hạ 2 càng te xuống và chuẩn bị cho một ngày làm việc trên biển mới hiểu, tại sao nghề biển dù mới chỉ loanh quanh gần bờ thôi nhưng đã rất cần một thể lực dẻo dai. Mỗi càng te bằng cây bạch đàn được nối lại dài khoảng 15-16 thước, đầu càng gắn một miếng sắt lớn uốn cong về phía trước như một bàn trượt. Cả 2 càng te gắn trước mũi ghe nằm trên một thanh gỗ lớn làm giá đỡ. Trước khi được đẩy xuống nước, 2 đầu càng te được gắn 2 trái bóng lớn bằng nhựa để tạo sức nâng lên để ngư phủ nhẹ bớt sức nặng. Đưa được 2 càng te xuống nước xong thì các ngư phủ còn phải nhảy xuống biển để gắn lưới, cân càng cho đồng hai bên… cuối cùng là tháo 2 trái bóng để bắt đầu công việc. Tất cả những công việc này đều cần đến thể lực và sự khéo léo…
Đi biển mỗi nghề có một cách ăn chia riêng. Te ruốc có hai kiểu chia: đi ngày và đi chuyến. Đi ngày thì bạn đi ghe sẽ nhận được một số tiền ấn định trước dù có chúng hay thất. Còn đi chuyến thì bạn ghe sẽ được theo tỷ lệ phần trăm đã xác định trên tổng số sản phẩm đánh bắt được. Anh chàng ngư dân nhỏ nhất của chuyến đi này tên là Nhí sau mẻ te đầu tiên thăm dò chọn đi ngày. Phụng-chọn đi chuyến. Chuyến này, te vô toàn ruốc Bông lau, thân ruốc lớn, trắng hồng. lẫn trong đụn là những chú cá dứa, tôm sắt, tôm giang, tôm bạc...
< Đã xuống xong càng te và đang cài lưới.
Đang là mùa biển êm nên cả vùng biển ghe tàu thả lưới, ghe cào, ghe te ruốc xuôi ngược thật nhộn nhịp. Điện thoại di động đã phủ sóng ra tận ngoài biển nên ngư dân liên lạc hỏi chuyện trúng thất để lái ghe di chuyển ngược nước hay cắt ngang dòng chảy tìm luồng đánh trúng thật dễ. Một từ mà ngư dân khi hỏi thăm nhau thường dùng cũng thật “ngồ ngộ”. Đó là từ “đồ”. “Đồ từ sáng tới giờ khá không ? Có đồ nhiều không” ? “Cũng khá! Nhưng cá dứa nhiều quá”. “Sáng giờ đẩy 3 mẻ ngược nước khúc cống 16 coi bộ dính tạp nhiều quá”.
Hoá ra từ này là để chỉ loại hải sản chính của chiếc ghe, chiếc tàu nào đó? Nếu là ghe cào thì “đồ” chủ lực sẽ là tôm sắt, tôm thẻ, tôm giang. Còn ghe đi te ruốc thì “đồ” chính là con ruốc. Những hải sản khác chỉ là phụ thêm mà thôi. Tuỳ theo chiều đẩy mà cứ khoảng 10-15 phút thì kéo tùng lên để “xả đồ”. Mỗi mẻ chí ít cũng được non 2 ký ruốc, trúng thì hơn 5 kg.
Trời trưa đứng bóng, chúng tôi cùng 3 ngư phủ ăn bữa cơm trưa đạm bạc trên biển. Nồi cơm đã được vợ của Huy chuẩn bị trước vào sáng sớm cùng với dĩa khô cá rô phi được chiên sẵn. Hôm nay có 2 vị khách là tôi và quay phim Tìa Lâm Huy nên những chú tôm sắt, tôm giang, tôm thẻ cũng được luộc lên để đãi khách. Giữa biển, trời trưa nắng, ghe vẫn chạy, thi thoảng Nhí, Phụng hoặc Huy lại buông chén để kéo tùng - xả ruốc. Đang ăn đấy nhưng vẫn làm đấy…
< Ngư phủ Nhí với mẻ te đâu tiên.
Con nước chuẩn bị lớn. Huy quyết định về bến để phơi ruốc cho kịp nắng. Công đoạn lên hai càng te lúc này mới thật sự là vất vả và nguy hiểm hơn khi xuống. Không chỉ cần đến sức mạnh của thể lực mà các ngư phủ còn phải thật khéo léo mới có thể đưa 2 càng te khổng lồ này lên được trên ghe. Khi này, 2 đầu càng te đã xả lưới và được cột vào 2 trái bóng nhựa… Nhí và phụng mỗi người một bên để canh ghì cho 2 càng te đi thẳng… Huy cầm lái ở phía sau nhắp ga cho chiếc ghe nhóng lên phía trước từng đợt, từng đợt để hất ngược 2 càng te về phía sau cho đến khi 2 càng te lọt vào ngàm giữ ở phía sau lái. Đây đúng không phải là công việc dành cho những người không có cơ bắp và sức lực như tôi…
Huy cũng quyết định cân luôn số ruốc của một ghe bạn khoảng hơn 100kg với giá 10.000đồng/kg. Hôm nay đánh cũng trúng khá nên chiếc ghe này quyết định ở lại đẩy thêm con nước lớn. Như vậy kể như đã gần xong một ngày lao động. Nhí ngồi ở mũi ghe vô tư đùa nghịch với 2 chú rẹm. Nước lớn, chiếc ghe vô rạch Giồng Đồn. Những người phụ nữ ở nhà đã chuẩn bị xong bãi để phơi ruốc cho được nắng. Một ngày trên biển đã qua. Hôm sau, chiếc ghe và những ngư phủ lại tiếp tục ra biển.
Phạ đáy trên cửa Mỹ Thanh
Sách Gia định thành thông chí của tác gia Trịnh Hoài Đức ghi chép về Mỹ Thanh hải môn xưa như sau: “rộng 10 dặm, khi nước lên sâu 12 thước ta, nước ròng sâu 4 thước ta. Bờ phía tây có thủ sở... thổ sản ở đây là thuốc lá, dưa quả và phơi tôm khô”. Đây cũng chính là lý do mà chúng tôi dành ra một ngày tìm hiểu về những sản vật đã làm nên danh tiếng của vùng cửa biển này.
< Phụng và Nhí ở mũi ghe bắt đầu lên càng te.
Với nghề đáy, nước ròng thì bắt đầu cài đáy, đến khi nước chuẩn bị những lớn thì dỡ đáy, từ nghề nghiệp là phạ đáy. Những hàng đáy đóng ở trên sông gọi là đáy chỉ. Cá tôm vào hàng đáy chỉ thì đủ loại. Thế nhưng trước khi phân loại thành quả thì việc dọn rác, giũ đáy là công việc nặng nhọc nhất. Chính vì vậy mà một chủ đáy nếu gia đình ít người thì luôn có những bạn đáy đi cùng để phụ giúp. Từ việc cài đáy, lên đáy, giặt đáy cho đến việc lên cá và lựa cá. Nghề hạ bạc này luôn đòi hỏi những thân hình lực lưỡng tràn đầy thể lực. Những công việc nặng nhọc nhất gánh đàn ông đã làm xong, còn những công việc đòi hỏi sự tỷ mỷ, nhẹ nhàng và khéo tay, nhanh nhẹn được dành cho các chị, các em, đó là phân loại cá, tép, tôm… ra riêng từng loại, cân hàng.v.v.
Trò chuyện cùng tôi sau một chiều đáy vào một buổi trưa tháng 5/2012, ngư phủ An, một bạn đáy vui vẻ nói:
- Nghề này sống được anh à! Trung bình một tháng em đi khoảng 25-30 chiều đáy. Một chiều là 100 ngàn. Nuôi vợ con được. Lúc rảnh thì làm thêm mấy chuyện khác nữa.
Hoá ra một “chiều” là một chiều con nước lên đáy, xuống đáy. Người đi bạn sẽ làm những công việc như: lặn xuống những cọc đáy để cài đáy, kiểm tra mành lưới… chiều lên đáy thì làm ngược lại nhưng cực hơn nhiều vì còn dọn rác, lựa cá, tôm và cuối cùng là gánh sản phẩm về sân.
Nghề đáy ngày nay trúng nhất có lẽ chỉ còn ở vùng cửa Mỹ Thanh với những hàng đáy thuộc làng chài Mỏ Ó. Dù vậy nếu so với những ngày trước thì đã kém hẳn. Những lão ngư dân cựu trào vẫn còn nhớ như in những ngày xưa, khi mà mỗi chiều đáy, một miệng đáy lên được cả trăm ký tôm cá. Bác Nguyễn Văn Heo, năm nay đã 71 tuổi và tự hào là người đã có 3 đời làm nghề đáy kể rằng:
< Cân cá, tôm ở làng chài Mỏ Ó.
- Nghề đáy ngày xưa tính trúng thất bằng “chảo”, tức là chảo gang lớn để luộc tôm đó. Mỗi miệng đáy ở xứ này mà mỗi chiều lên chỉ có 2-3 chảo thì kể như thất! Còn trung bình thì phải từ 5 đến 7 chảo. Một chảo tôm như vậy sau khi phơi khô thì cân được khoảng 18 ký tôm khô. Bán chủ yếu lên miệt Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho và miệt ngoài chớ dân ở đây ăn gì hết.
Hoá ra vậy! Thành thử hỏi sao xưa kia vùng cửa sông này không nổi tiếng với con tôm khô.
Nghề nào cũng vậy! Ắt có lúc thịnh, lúc suy. Dân cư đông đúc, ghe tàu thêm đông, nhiều kiểu đánh bắt hiện đại và tinh vi hơn thì những phương thức đánh bắt truyền thống giảm sút sản lượng và hiệu quả cũng là điều dễ hiểu.
Làng chài Mỏ Ó giờ đã là bến tập trung những ghe tàu đánh bắt nhiều kích cỡ. Tàu lớn đánh lưới khơi, tàu đánh cá gộc, tàu cào, tàu lưới đủ cả. Gặp đúng con nước tàu về bến, hẳn khách phương xa ắt choáng ngợp trước sự náo nhiệt của những bến nước, của đầy ắp cá tôm. Cả làng chài náo nhiệt như một ngày hội.
Cho đến nay, biển được ví như “Bạc” vẫn đúng. Biển vẫn đem đến cho những ngư phủ niềm vui tràn đầy khi lên mẻ lưới trúng, biển hiền hoà nhưng cũng có khi khắc nghiệt với con người. Biển đòi hỏi những người ra biển phải có một thể lực sung mãn, tinh thần vững vàng, sẵn sàng đương đầu với bão giông bất chợt.
Chuyến phiêu du của chúng tôi ở làng chài Mỏ Ó kết thúc khi trời đã ngả về chiều. Khi những hạt nắng ươm rải khắp những giàn liếp, đượm thêm cho những sấp cá khô những sắc màu tươi tắn.
Còn tiếp
- Mỹ Thanh Du Ký - Kỳ 1: Mênh mang Mỹ Thanh.
- Mỹ Thanh Du Ký - Kỳ 2: Ra biển te ruốc và phạ đáy trên cửa Mỹ Thanh.
- Mỹ Thanh Du Ký - Kỳ 3: Giếng Ngự, mộ Hoàng Cô và con Cọp cuối cùng ở Giồng Sát.
- Mỹ Thanh Du Ký - Kỳ 4: Tả ngạn Mỹ Thanh và con rạch Tổng Cán.
- Mỹ Thanh Du Ký - Kỳ 5: Rạch Gòi - Lịch Hội Thượng và những ngôi chùa chứng tích.
- Mỹ Thanh Du Ký - Kỳ 6: Đất và người trên Cánh đồng Năn huyền thoại.
Du lịch, GO! - Theo Tuyên Giáo Sóc Trăng
0 nhận xét:
Đăng nhận xét